Tính toán phát thải khí thải và ứng dụng hệ mô hình TAPM-AERMOD mô phỏng ô nhiễm không khí từ hệ thống bến cảng tại Thành phố Hồ Chí Minh

  • Tạp chí Phát triển KH&CN
  • Vũ Hoàng Ngọc Khuê
  • Phạm Thị Nguyệt Thanh
  • Hồ Quốc Bằng
  • Nguyễn Thoại Tâm
  • Nguyễn Thị Thúy Hằng
Từ khóa: Ô nhiễm không khí cảng biển TP.HCM, kiểm kê phát thải, TAPM, AERMOD

Tóm tắt

Hệ thống cảng thành phố Hồ Chí Minh gồm 34 cảng có phát thải khí thải, đóng vai trò là cửa ngõ của miền Nam (bao gồm cả Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long) trong các hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu. Hoạt động cảng biển là lĩnh vực đóng góp một lượng lớn khí thải vào bầu khí quyển Thành phố Hồ Chí Minh (TP. HCM). Mục đích của nghiên cứu này là (i) tính toán thải lượng các chất ô nhiễm không khí từ hoạt động cảng của TP.HCM sử dụng mô hình SPD-GIZ như oxit lưu huỳnh (SOX), oxit nitơ (NOX), bụi mịn (PM2.5, PM10), hợp chất hữu cơ dễ bay hơi (VOC), cacbon monoxit (CO) từ các hoạt động như tàu biển (Ocean going vessels-OGVs), tàu lai dắt (Harbor Crafts-HC), phương tiện phục vụ bốc dỡ hàng hóa (Cargo handling equipment-CHE) và phương tiện giao thông tại cảng (Heavy trucks-HVs); (ii) Sử dụng mô hình mô phỏng chất lượng không khí TAPM-AERMOD để đánh giá ảnh hưởng hoạt động cảng đến chất lượng không khí khu vực lân cận; (iii) dựa trên kết quả mô phỏng đề xuất các giải pháp giảm phát thải và giảm nhẹ mức độ ô nhiễm. Các kết quả kiểm kê phát thải khí thải cho thấy tổng lượng phát thải tại cảng là khí NOX và SOX chủ yếu từ OGVs và CHE do sử dụng nhiên liệu là dầu nặng và dầu Diesel có hàm lượng lưu huỳnh cao. Kết quả cho thấy rằng thời gian lúc tàu neo đậu là thời gian phát thải chiếm cao nhất (chiếm trên 90% tổng phát thải từ OGVs).

điểm /   đánh giá
Phát hành ngày
2020-07-17
Chuyên mục
Bài viết